• Các thành viên chú ý, NHT trở lại vẫn giữ những thông tin cũ, bao gồm username và mật khẩu. Vì vậy mong mọi người sử dụng nick name(hoặc email) và mật khẩu cũ để đăng nhập nhé. Nếu quên mật khẩu hãy vào đây Hướng dẫn lấy lại mật khẩu. Nếu cần yêu cầu trợ giúp, xin liên hệ qua facebook: Le Tuan, Trân trọng!

Làm giàu từ Hy Thiêm trên đất Hà Tĩnh (xin nhờ phản biện)

futureprecedor

Đánh thức nhân tài Việt
#1
Ông Nguyễn Mạnh Cường ở thôn Xuân Quang, thị trấn Gia Khánh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc đã mạnh dạn đi đầu trồng cây dược liệu Hy Thiêm, mở ra hướng làm giàu mới cho nhiều hộ dân vùng đồng trũng. Đây là một loại cây dược quý hiếm được dùng rất nhiều trong đông y để chữa trị các bệnh phong thấp, tê bại nửa người, đau nhức xương khớp, đau lưng mỏi gối...

Ông Cường trồng cây dược liệu trên diện tích 1 ha thuê của HTX dịch vụ nông nghiệp Minh Trang, thị trấn Gia Khánh, trước đây chuyên trồng lúa và làm màu vụ đông nhưng hiệu quả kinh tế không cao do đất ở đây là đất pha cát, thuộc khu vực đồng trũng. Là người có kinh nghiệm trong nghề trồng trọt cộng với qua một thời gian tìm hiểu đầu mối thị trường tiêu thụ, đầu năm 2010, gia đình ông triển khai trồng thử nghiệm cây dược liệu Hy Thiêm - loại cây trồng hoàn toàn mới đối với đồng đất, tập quán canh tác của gia đình.

Qua tài liệu, sách, báo, được biết cây Hy Thiêm thường mọc vào mùa đông xuân và lụi vào cuối mùa hè hoặc đầu mùa thu, ông Cường thử nghiệm áp dụng 2 phương pháp gieo hạt trực tiếp vào luống và gieo hạt qua vườn ươm; tiến hành trồng làm 3 đợt gồm cuối tháng 1, giữa tháng 2, đầu tháng 3 trong năm. Kết quả cả hai phương pháp gieo hạt, cây đều sinh trưởng và phát triển tốt, các đợt trồng đều ra hoa và bắt đầu cho quả suốt từ tháng 5 đến tháng 10. Theo tính toán, chỉ sau hơn 2 tháng trồng, cây Hy Thiêm đã cho thu hoạch, năng suất trung bình đạt 103,6kg/sào. Trung bình một sào đất trồng cây Hy Thiêm, mỗi năm cho thu hoạch 3-4 vụ, đạt giá trị từ 3,9-4,4 triệu đồng/sào/vụ, cao gấp chục lần so với trồng lúa, ngô. Trừ các khoản chi phí, gia đình ông lãi từ 2,6-3,3 triệu đồng/sào/vụ. Ngoài ra, gia đình ông còn tận thu được những cây loại hai bán với giá thấp hơn.

Theo các nhà khoa học cây dược liệu Hy Thiêm còn có tên gọi khác là chó đẻ hoa vàng, đang được dùng phổ biến trong y học cổ truyền và công nghiệp dược ở Việt Nam. Trong cây có chứa daturosid (chất này thuỷ phân cho glucose và darutugenol), orientalid và 3,7dimethylquercetin. Lá Hy Thiêm có tác dụng ức chế rõ rệt giai đoạn viêm cấp tính và ức chế yếu giai đoạn viêm mãn tính thực nghiệm. Độc tính cấp của Hy Thiêm tương đối thấp (77,7g/kg trọng lượng), do đó có thể bào chế các thuốc điều trị bệnh khớp. Hy Thiêm còn có tác dụng dược lý như trừ phong thấp, thông kinh lạc, thanh nhiệt giải độc, lợi gân cốt, giảm đau, đồng thời có tác dụng giảm độc, an thần, hạ huyết, chủ trị chứng phong thấp tê liệt, ung nhọt, thấp chấn, ngứa ngáy, rắn cắn. Theo kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại, thuốc còn có tác dụng kháng viêm, giãn mạch, hạ huyết áp.

Với loại cây trồng mới này, dự kiến tỉnh Vĩnh Phúc sẽ có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích, đào tạo tập huấn cho nông dân để mở rộng vùng sản xuất. Hội Nông dân tỉnh cũng đã có kế hoạch tìm đầu mối tiêu thụ sản phẩm ổn định cho người nông dân./.
 

futureprecedor

Đánh thức nhân tài Việt
#2
Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật sản xuất dược liệu cây hy thiêm (Siegesbeckia orientalis L.) cho năng suất cao, chất lượng an toàn tại Ngọc Lặc - Thanh Hóa
(nguồn : http://www.kilobooks.com/threads/25902-Nghi%C3%AAn-c%E1%BB%A9u-m%E1%BB%99t-s%E1%BB%91-bi%E1%BB%87n-ph%C3%A1p-k%E1%BB%B9-thu%E1%BA%ADt-s%E1%BA%A3n-xu%E1%BA%A5t-d%C6%B0%E1%BB%A3c-li%E1%BB%87u-c%C3%A2y-hy-thi%C3%AAm-%28Siegesbeckia-orientalis-L-%29-cho-n%C4%83ng-su%E1%BA%A5t-cao-ch%E1%BA%A5t-l%C6%B0%E1%BB%A3ng-an-to%C3%A0n-t%E1%BA%A1i-Ng%E1%BB%8Dc-L%E1%BA%B7c-Thanh-H%C3%B3a

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây thuốc và các sản phẩm của chúng được sử dụng rộng rãi làm thuốc. Hiện nay thuốc từ dược liệu chiếm một tỷ trọng lớn trên thị trường thuốc thế giới. Trong tình hình hiện nay, nhà nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới đã rất quan tâm đến đảm bảo chất lượng, an toàn và hiệu lực của thuốc khi sử dụng.
Cây hy thiêm (Siegesbeckia orientalis L.) thuộc họ Cúc - Asteraceae là cây thân thảo, mọc hoang hàng năm ở nước ta và một số nước Châu Á như Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Inđônêsia, Philippin, [9], [30]. Là cây thuốc Nam thiết yếu trong danh mục cây thuốc thiết yếu Y học cổ truyền Việt Nam [27].
Vị thuốc hy thiêm được dùng chủ yếu trị các bệnh phong thấp, bán thân bất toại, đau nhức các khớp xương, chữa các bệnh phong, bệnh hoa liễu, chữa suy nhược thần kinh, mất ngủ và cao huyết áp [29]. Hy thiêm được nhân dân ta sử dụng lâu đời trong các bài thuốc y học cổ truyền và gần đây đã có mặt ở hàng chục thành phẩm trong công nghiệp dược. Hy thiêm thật sự đã và đang đóng góp quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
Nhu cầu dược liệu hy thiêm ở nước ta mỗi năm ước tính 200 – 300 tấn. Triển vọng nhu cầu nguồn dược liệu này sẽ lớn hơn rất nhiều vì trong quá trình hội nhập Quốc tế, dược liệu hy thiêm sẽ có cơ hội được xuất khẩu. Tuy nhiên, hy thiêm là cây mọc hoang, mọc không tập trung, sống rải rác ở nhiều tỉnh thuộc miền Bắc Việt Nam. Việc thu hái ngày càng khó khăn khi diện tích hoang dại dẫn đến bị thu hẹp lại dẫn đến khai thác tự nhiên không đáp ứng nhu cầu về khối lượng. Rõ ràng rằng chất lượng dược liệu hoang dại hoàn toàn không đảm bảo với tiêu chuẩn y tế và không ổn định về phẩm chất nguyên liệu.
Trước nhu cầu sử dụng hy thiêm ngày càng lớn về số lượng và chất lượng vấn đề dược liệu đảm bảo an toàn nhất thiết cần được quan tâm nghiên cứu.
Thanh Hóa là tỉnh có nhu cầu sử dụng cây hy thiêm lớn nhất trong cả nước, mỗi năm trên 100 tấn dược liệu hy thiêm để làm thuốc HYDAN phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Sử dụng nguyên liệu tại chỗ (trong tỉnh) và chủ động sản xuất dược liệu là hướng đi đúng đắn trong kế hoạch tạo nguồn nguyên liệu làm thuốc.
Những năm gần đây, Viện Dược liệu cũng đã quan tâm nghiên cứu, song mới dừng lại về nghiên cứu sản xuất hạt giống hy thiêm đảm bảo tiêu chuẩn. Các biện pháp kỹ thuật để sản xuất dược liệu hy thiêm đạt năng suất cao, chất lượng tốt, an toàn hiện đang là hướng nghiên cứu tiếp tục của Viện.
Nhằm góp phần hoàn thiện quy trình sản xuất dược liệu hy thiêm, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Đoàn Thị Thanh Nhàn chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật sản xuất dược liệu cây hy thiêm (Siegesbeckia orientalis L.) cho năng suất cao, chất lượng an toàn tại Ngọc Lặc - Thanh Hóa".
1.2. Mục đích, yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Xác định thời vụ trồng, liều lượng phân bón, mật độ trồng và loại thuốc trừ sâu phù hợp với sinh trưởng, phát triển của cây hy thiêm, cho năng suất, chất lượng dược liệu tốt. Trên cơ sở đó góp phần hoàn thiện quy trình kỹ thuật sản xuất duợc liệu hy thiêm đạt năng suất cao, chất lượng tốt và an toàn tại Thanh Hóa.
1.2.2. Yêu cầu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của thời vụ, liều lượng phân bón, mật độ khác nhau đến sinh trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng dược liệu hy thiêm. - Đánh giá ảnh hưởng của 2 loại thuốc trừ sâu: hoá học (Sherpa) và thuốc có nguồn gốc sinh học (Javatin) đến năng suất, chất lượng và độ an toàn dược liệu hy thiêm.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Khoa học
- Góp phần xây dựng được quy trình sản xuất dược liệu hy thiêm cho năng suất cao và chất lượng an toàn an toàn.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài đóng góp và bổ sung tài liệu cho công tác nghiên cứu và là tài liệu giảng dạy cũng như chỉ đạo sản xuất.
1.3.2. Thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở để phổ biến về quy trình kỹ thuật sản xuất dược liệu hy thiêm cho nông dân nhiều vùng của tỉnh Thanh Hoá, góp phần đảm bảo nhu cầu nguyên liệu để sản xuất thuốc HYĐAN - thuốc HYĐAN được khai thác từ bài thuốc quý của dân tộc Mường (bài thuốc bà Giằng) mà hiện nay nhu cầu của tỉnh cũng như trong nước đang cần một khối lượng rât lớn.
- Góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, mở rộng diện tích của cây hy thiêm - một cây từ khai thác tự nhiên mới được nghiên cứu đưa vào trồng trọt.






2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU HY THIÊM

2.1. Nguồn gốc thực vật cây Hy thiêm (Siegesbeckia orientalis L.)
Theo Phạm Hoàng Hộ [9] và Võ Văn Chi [6], cây thuốc hy thiêm được dùng phổ biến hiện nay trong y học cổ truyền và công nghiệp dược ở Việt Nam có tên khoa học Siegesbeckia orientalis L. thuộc họ Cúc - Asteraceae. Còn có tên gọi khác là cỏ đĩ, chó đẻ hoa vàng
Giải thích tên gọi khác nhau này theo Đỗ Tất Lợi [15], cây hy thiêm ban đầu được dùng tại nước Sở (miền nam Trung Quốc) dân địa phương gọi lợn là hy, gọi cỏ có vị đắng cay có độc là thiêm. Vì vị của cây này có mùi như con lợn nên gọi là hy thiêm. Tên *** lợn là tên dịch nghĩa Việt của câu này, do vậy cần phân biệt với các loại khác cũng được gọi là *** lợn như Ageratum conyzoides hay Lantana camara. Tên gọi cỏ đĩ là do cây này có chất dính vào người đi qua nó.
Về nguồn gốc thực vật theo Lê Đình Bích [5], trong giới thực vật được chia làm 2 phân giới: Bậc thấp và bậc cao, trong thực vật bậc cao có rất nhiều ngành thì ngành Ngọc lan (hạt kín) đáng quan tâm vì ngành này trên thế giới có 250.000 – 300.000 loài, trong đó Việt Nam có tới 9462 loài. Ngành Ngọc lan được chia làm 2 lớp: Lớp Hành (một lá mầm); và lớp Ngọc lan (hai lá mầm). Lớp Ngọc lan được chia làm nhiều phân lớp, trong đó phân lớp Cúc có 2 bộ thì bộ Cúc được quan tâm nhiều hơn bởi bộ này có họ Cúc là họ có số loài làm thuốc đông nhất trong giới thực vật có hoa gồm 125 chi trên 350 loài, trong đó có 51 loài thường làm thuốc. Trong 51 loài này có 18 loài vừa làm thuốc y học cổ truyền vừa làm nguyên liệu công nghiệp dược như Astiso, Cúc hoa, Hy thiêm, Thanh cao hoa vàng, Bạch truật rõ ràng họ Cúc là kho tàng nghiên cứu phát triển cây thuốc. Chi Siegesbeckia là một trong 125 chi nêu trên, trong chi này có loài S.orientalis L. thuộc đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Giới (regnum):
Plantae
Ngành (divisio):
Magnoliophyta
Lớp (class):
Magnoliopsida
Bộ (ordo):
Asterales
Họ (familia):
Asteraceae
Chi (genus):
Siegesbeckia
Loài (species):
S. orientalis
Như vậy, cây hy thiêm thuộc loài S.orientalis L. và đó cũng là đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Theo Nguyễn Thị Phương Thảo [23], ở
Việt Nam chi Siegesbeckia có 4 loài trong 9 loài được phát hiện trên thế giới đó là:
- Siegesbeckia glabrescens Makino. Cũng gọi là Hy thiêm, cỏ dính.
- Siegesbeckia integrifolia Gagnep, gọi là Hy thiêm lá nguyên. Phân bố ở Đắc Lắc, Lâm Đồng (Đà Lạt, Đức Trọng) là loài đặc hữu sống ở độ cao từ 1.000 – 1.600 m so với mặt nước biển, chưa thấy tài liệu nào nói cây này làm thuốc.
- Hy thiêm. hay còn gọi có tên dân gian khác là cỏ đĩ, *** lợn, hy kiểm thảo, hy tiên, niêm hồ thái, chư cao, chó đẻ, nụ áo rìa, nhả khí cáy (Tày), co boóng bo (Thái) tên khoa học Siegesbeckia orientalis L.là một loài thực vật họ cúc (Asteraceae).
- Siegesbeckia pubescens Makino, còn gọi là hy thiêm lông, cúc dính đây là loài vẫn được dùng làm thuốc như Hy thiêm S.orientalis L. nhưng ở Việt Nam ít gặp.
Theo Lê Quý Ngưu, Trần Thị Như Đức [17], Hy thiêm thảo là lá khô của các cây Siegesbeckia pubescens Makino hoặc các cây Hy thiêm Siegesbeckia orientalis L.; Siegesbeckia glabrecens Mak.
Mặc dù vậy, nhưng loài S.orientalis L. vẫn được dùng phổ biến để chữa bệnh, cũng là loài phân bố trong tự nhiên rất rộng rãi ở nước ta và được quan tâm nghiên cứu nhiều nhất.
2.2. Đặc điểm sinh vật học của họ Cúc và loài Hy thiêm
- Theo Lê Đình Bích [5], Họ Cúc là cây cỏ hay bụi, ít khi là dây leo hay cây gỗ. Lá đơn, ít khi lá kép hoặc tiêu giảm, mọc so le, không có lá kèm.
Cụm hoa là đầu, các đầu có thể tụ họp thành từng chùm đầu hoặc ngù đầu. Số hoa trên một đầu cũng khác nhau. Mỗi hoa trên một kẽ lá hình vẩy nhỏ. Hoa lưỡng tính hoặc đơn tính, có khi vô tính do cả bộ nhị và nhụy không phát triển. Đài không bao giờ có dạng lá. Tràng 5 dính nhau thành ống có 5 thuỳ hoặc hình lưỡi nhỏ có 3 - 4 răng hoặc thành hình môi. Núm nhụy luôn chia thành 2 nhánh, ban đầu ép lại với nhau, mặt trong của núm nhuỵ là nơi tiếp nhận hạt phấn, mặt ngoài có lông để quét hạt phấn khi vòi nhuỵ đi qua bao phấn. Những hạt phấn này được sâu bọ mang đi thụ phấn cho hoa khác, khi các nhánh cuả núm nhuỵ đã tách ra.
Quả kín, mỗi quả có 1 hạt. Để giúp sự phát tán, mỗi quả có thể có một chùm lông (phát tán nhờ gió), có gai nhọn có móc nhỏ hoặc có lông dính (phát tán nhờ động vật). Hạt có phôi lớn không có nội nhũ.
- Theo Viện Dược liệu [32], hy thiêm là cây thân thảo (cỏ), sống hàng năm, cao từ 30 - 90 cm. Phân nhiều cành nằm ngang có lông, lá mọc đối hình quả trám, có khi tam giác hay hình thoi mũi mác, dài 4 - 10 cm, rộng 3 - 6 cm, cuống ngắn phiến lá men theo cuống, đầu nhọn mép lá có răng cưa không đều và đôi khi chia đều ở phía cuống, 3 gân chính mảnh, mặt dưới lá hơi có lông. Cụm hoa hình ngù có lá, đầu màu vàng có cuống dài từ 1 - 2 cm, mảnh, có lông. Năm lá bắc ngoài to, hình thìa mặt trong có lông dính, mặt ngoài có tuyến, lá bắc trong hình trái xoan ngược, hoa màu vàng, 5 cái ngoài là hoa cái hình lưỡi, những hoa khác lưỡng tính hình ống, không có mào lông, tràng có lưỡi ngắn. Quả bế hình trứng có 5 cạnh, góc nhẵn tròn ở đỉnh, gốc thuôn dần, nhẵn, màu đen.
Ra hoa vào tháng 4 - 5 đến tháng 8 - 9, mùa quả tháng 6 - 10.
2.3. Phân bố và điều kiện sống trong tự nhiên của hy thiêm
Ở Việt Nam cây hy thiêm phân bố rộng cả về kinh độ và vĩ độ. Thường mọc rải rác ở trung du, miền núi và đồng bằng từ các tỉnh Lào Cai đến Nghệ An, có gặp ở một số tỉnh Tây Nguyên. Hy thiêm thuộc loại cây thảo, thường mọc ở những nơi đất tương đối ẩm và màu mỡ, trên các nương rẫy. Ở những khu đất ẩm màu mỡ trên các bãi sông, triền sông, trong các thung lũng, nương rẫy, ruộng hoang, ruộng trồng ngô hoặc trong vườn nhà màu mỡ thường gặp hy thiêm mọc hoang [15].
Vùng trung du, đồng bằng Bắc Trung bộ của Việt Nam, hy thiêm thường mọc vào đầu mùa xuân (tháng 1 - 2); ra hoa kết quả từ tháng 3 - 6, cây lụi vào cuối mùa hè (tháng 7 - 8). Miền núi cao trên 800m trở lên so với mặt biển, hàng năm cây mọc vào cuối mùa xuân (tháng 3 - 4); ra hoa kết quả vào mùa thu (tháng 9 - 10), tàn lụi vào đầu mùa đông (tháng 11 - 12) [20].
Hạt hy thiêm trong tự nhiên có thời gian ngủ nghỉ dài dưới đất, cây mọc theo thời vụ trong điều kiện độ ẩm của đất cao 80 - 90% trở lên, nhiệt độ không khí từ 25 - 270C. Tỷ lệ cây mọc ngoài tự nhiên rất thấp, ước tính khoảng 2 - 3% [32].
2.4. Thành phần hoá học và dược tính
- Theo Võ Văn Chi [6], toàn cây hy thiêm có chất đắng daturosid, orientin (diterpen lacton);. 3,7 dimethylquercetin
- Theo Viện Dược liệu [32], hy thiêm có chứa daturosid (chất này thuỷ phân cho glucose và darutugenol), orientin, orientalid và 3,7 dimethylquercetin:
- Theo Phạm Trương Thị Thọ, Phạm Duy Mai [26], trong lá hy thiêm S.orientalis L. chứa Daturosid và darutigenol. Bằng phương pháp chiết tách, các tác giả đã tách được 2 nhóm chất, trong đó nhóm I có tác dụng chống viêm liều cao, nhóm II có tác dụng rõ ràng chống viêm trên chuột, đây có thể là hoạt chất chống viêm của hy thiêm.
- Một số tác giả nước ngoài; Nam Koo Dong, Kim Ja Hoan [35] cho rằng trong hy thiêm có một chất đắng không phải là ancaloit hay glucozit gọi là darutin dẫn xuất của axit salixylic. Các tác giả đã tách được 5 diterpenoids từ cây hy thiêm lông Siegesbeekia pubescens Makino:
- Theo Đoàn Thị Nhu [19], lá hy thiêm có tác dụng ức chế rõ rệt giai đoạn viêm cấp tính và ức chế yếu giai đoạn viêm mãn tính thực nghiệm. Độc tính cấp của hy thiêm tương đối thấp (77,5g/kg trọng lượng). Do đó có thể bào chế các thuốc điều trị bệnh khớp.
A. Tác dụng dược lý:
Trừ phong thấp, thông kinh lạc, thanh nhiệt giải độc, lợi gân cốt, giảm đau, đồng thời có tác dụng giảm độc, an thần, hạ huyết.
Chủ trị chứng phong thấp tê liệt, ung nhọt, thấp chấn, ngứa ngáy.
Trích doạn Y văn cổ:
Sách Đồ kinh bản thảo: "trị can thận phong khí, chân tay tê dại, đau trong xương, lưng gối mỏi - kiêm chủ phong thấp sang, cơ nhục tê khó khỏi".
Sách bản thảo kinh sơ: “khu phong trừ thấp kiêm hoạt huyết".
B. Kết qủa nghiên cứu dược lý hiện đại:
Thuốc có tác dụng kháng viêm, giãn mạch, hạ huyết áp.
2.5 Giới thiệu một số bài thuốc và thuốc có Hy thiêm
2.5.1 Trong y học cổ truyền
Vị thuốc hy thiêm có trong nhiều bài thuốc y học cổ truyền. Theo Đỗ Tất Lợi [15], hy thiêm được sử dụng chủ yếu để chữa các bệnh phong tê thấp hoặc thấp khớp. Một số bài thuốc tiêu biểu được áp dụng phổ biến trong dân gian như sau:
* Chữa phong tê thấp:
- Theo Hải Thượng Lãn Ông, nếu phong đau nên dùng:

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây thuốc và các sản phẩm của chúng được sử dụng rộng rãi làm thuốc. Hiện nay thuốc từ dược liệu chiếm một tỷ trọng lớn trên thị trường thuốc thế giới. Trong tình hình hiện nay, nhà nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới đã rất quan tâm đến đảm bảo chất lượng, an toàn và hiệu lực của thuốc khi sử dụng.
Cây hy thiêm (Siegesbeckia orientalis L.) thuộc họ Cúc - Asteraceae là cây thân thảo, mọc hoang hàng năm ở nước ta và một số nước Châu Á như Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, Inđônêsia, Philippin, [9], [30]. Là cây thuốc Nam thiết yếu trong danh mục cây thuốc thiết yếu Y học cổ truyền Việt Nam [27].
Vị thuốc hy thiêm được dùng chủ yếu trị các bệnh phong thấp, bán thân bất toại, đau nhức các khớp xương, chữa các bệnh phong, bệnh hoa liễu, chữa suy nhược thần kinh, mất ngủ và cao huyết áp [29]. Hy thiêm được nhân dân ta sử dụng lâu đời trong các bài thuốc y học cổ truyền và gần đây đã có mặt ở hàng chục thành phẩm trong công nghiệp dược. Hy thiêm thật sự đã và đang đóng góp quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
Nhu cầu dược liệu hy thiêm ở nước ta mỗi năm ước tính 200 – 300 tấn. Triển vọng nhu cầu nguồn dược liệu này sẽ lớn hơn rất nhiều vì trong quá trình hội nhập Quốc tế, dược liệu hy thiêm sẽ có cơ hội được xuất khẩu. Tuy nhiên, hy thiêm là cây mọc hoang, mọc không tập trung, sống rải rác ở nhiều tỉnh thuộc miền Bắc Việt Nam. Việc thu hái ngày càng khó khăn khi diện tích hoang dại dẫn đến bị thu hẹp lại dẫn đến khai thác tự nhiên không đáp ứng nhu cầu về khối lượng. Rõ ràng rằng chất lượng dược liệu hoang dại hoàn toàn không đảm bảo với tiêu chuẩn y tế và không ổn định về phẩm chất nguyên liệu.
Trước nhu cầu sử dụng hy thiêm ngày càng lớn về số lượng và chất lượng vấn đề dược liệu đảm bảo an toàn nhất thiết cần được quan tâm nghiên cứu.
Thanh Hóa là tỉnh có nhu cầu sử dụng cây hy thiêm lớn nhất trong cả nước, mỗi năm trên 100 tấn dược liệu hy thiêm để làm thuốc HYDAN phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Sử dụng nguyên liệu tại chỗ (trong tỉnh) và chủ động sản xuất dược liệu là hướng đi đúng đắn trong kế hoạch tạo nguồn nguyên liệu làm thuốc.
Những năm gần đây, Viện Dược liệu cũng đã quan tâm nghiên cứu, song mới dừng lại về nghiên cứu sản xuất hạt giống hy thiêm đảm bảo tiêu chuẩn. Các biện pháp kỹ thuật để sản xuất dược liệu hy thiêm đạt năng suất cao, chất lượng tốt, an toàn hiện đang là hướng nghiên cứu tiếp tục của Viện.
Nhằm góp phần hoàn thiện quy trình sản xuất dược liệu hy thiêm, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Đoàn Thị Thanh Nhàn chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật sản xuất dược liệu cây hy thiêm (Siegesbeckia orientalis L.) cho năng suất cao, chất lượng an toàn tại Ngọc Lặc - Thanh Hóa".
1.2. Mục đích, yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Xác định thời vụ trồng, liều lượng phân bón, mật độ trồng và loại thuốc trừ sâu phù hợp với sinh trưởng, phát triển của cây hy thiêm, cho năng suất, chất lượng dược liệu tốt. Trên cơ sở đó góp phần hoàn thiện quy trình kỹ thuật sản xuất duợc liệu hy thiêm đạt năng suất cao, chất lượng tốt và an toàn tại Thanh Hóa.
1.2.2. Yêu cầu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của thời vụ, liều lượng phân bón, mật độ khác nhau đến sinh trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng dược liệu hy thiêm. - Đánh giá ảnh hưởng của 2 loại thuốc trừ sâu: hoá học (Sherpa) và thuốc có nguồn gốc sinh học (Javatin) đến năng suất, chất lượng và độ an toàn dược liệu hy thiêm.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Khoa học
- Góp phần xây dựng được quy trình sản xuất dược liệu hy thiêm cho năng suất cao và chất lượng an toàn an toàn.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài đóng góp và bổ sung tài liệu cho công tác nghiên cứu và là tài liệu giảng dạy cũng như chỉ đạo sản xuất.
1.3.2. Thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở để phổ biến về quy trình kỹ thuật sản xuất dược liệu hy thiêm cho nông dân nhiều vùng của tỉnh Thanh Hoá, góp phần đảm bảo nhu cầu nguyên liệu để sản xuất thuốc HYĐAN - thuốc HYĐAN được khai thác từ bài thuốc quý của dân tộc Mường (bài thuốc bà Giằng) mà hiện nay nhu cầu của tỉnh cũng như trong nước đang cần một khối lượng rât lớn.
- Góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, mở rộng diện tích của cây hy thiêm - một cây từ khai thác tự nhiên mới được nghiên cứu đưa vào trồng trọt.






2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU HY THIÊM

2.1. Nguồn gốc thực vật cây Hy thiêm (Siegesbeckia orientalis L.)
Theo Phạm Hoàng Hộ [9] và Võ Văn Chi [6], cây thuốc hy thiêm được dùng phổ biến hiện nay trong y học cổ truyền và công nghiệp dược ở Việt Nam có tên khoa học Siegesbeckia orientalis L. thuộc họ Cúc - Asteraceae. Còn có tên gọi khác là cỏ đĩ, chó đẻ hoa vàng
Giải thích tên gọi khác nhau này theo Đỗ Tất Lợi [15], cây hy thiêm ban đầu được dùng tại nước Sở (miền nam Trung Quốc) dân địa phương gọi lợn là hy, gọi cỏ có vị đắng cay có độc là thiêm. Vì vị của cây này có mùi như con lợn nên gọi là hy thiêm. Tên *** lợn là tên dịch nghĩa Việt của câu này, do vậy cần phân biệt với các loại khác cũng được gọi là *** lợn như Ageratum conyzoides hay Lantana camara. Tên gọi cỏ đĩ là do cây này có chất dính vào người đi qua nó.
Về nguồn gốc thực vật theo Lê Đình Bích [5], trong giới thực vật được chia làm 2 phân giới: Bậc thấp và bậc cao, trong thực vật bậc cao có rất nhiều ngành thì ngành Ngọc lan (hạt kín) đáng quan tâm vì ngành này trên thế giới có 250.000 – 300.000 loài, trong đó Việt Nam có tới 9462 loài. Ngành Ngọc lan được chia làm 2 lớp: Lớp Hành (một lá mầm); và lớp Ngọc lan (hai lá mầm). Lớp Ngọc lan được chia làm nhiều phân lớp, trong đó phân lớp Cúc có 2 bộ thì bộ Cúc được quan tâm nhiều hơn bởi bộ này có họ Cúc là họ có số loài làm thuốc đông nhất trong giới thực vật có hoa gồm 125 chi trên 350 loài, trong đó có 51 loài thường làm thuốc. Trong 51 loài này có 18 loài vừa làm thuốc y học cổ truyền vừa làm nguyên liệu công nghiệp dược như Astiso, Cúc hoa, Hy thiêm, Thanh cao hoa vàng, Bạch truật rõ ràng họ Cúc là kho tàng nghiên cứu phát triển cây thuốc. Chi Siegesbeckia là một trong 125 chi nêu trên, trong chi này có loài S.orientalis L. thuộc đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Giới (regnum):
Plantae
Ngành (divisio):
Magnoliophyta
Lớp (class):
Magnoliopsida
Bộ (ordo):
Asterales
Họ (familia):
Asteraceae
Chi (genus):
Siegesbeckia
Loài (species):
S. orientalis
Như vậy, cây hy thiêm thuộc loài S.orientalis L. và đó cũng là đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Theo Nguyễn Thị Phương Thảo [23], ở
Việt Nam chi Siegesbeckia có 4 loài trong 9 loài được phát hiện trên thế giới đó là:
- Siegesbeckia glabrescens Makino. Cũng gọi là Hy thiêm, cỏ dính.
- Siegesbeckia integrifolia Gagnep, gọi là Hy thiêm lá nguyên. Phân bố ở Đắc Lắc, Lâm Đồng (Đà Lạt, Đức Trọng) là loài đặc hữu sống ở độ cao từ 1.000 – 1.600 m so với mặt nước biển, chưa thấy tài liệu nào nói cây này làm thuốc.
- Hy thiêm. hay còn gọi có tên dân gian khác là cỏ đĩ, *** lợn, hy kiểm thảo, hy tiên, niêm hồ thái, chư cao, chó đẻ, nụ áo rìa, nhả khí cáy (Tày), co boóng bo (Thái) tên khoa học Siegesbeckia orientalis L.là một loài thực vật họ cúc (Asteraceae).
- Siegesbeckia pubescens Makino, còn gọi là hy thiêm lông, cúc dính đây là loài vẫn được dùng làm thuốc như Hy thiêm S.orientalis L. nhưng ở Việt Nam ít gặp.
Theo Lê Quý Ngưu, Trần Thị Như Đức [17], Hy thiêm thảo là lá khô của các cây Siegesbeckia pubescens Makino hoặc các cây Hy thiêm Siegesbeckia orientalis L.; Siegesbeckia glabrecens Mak.
Mặc dù vậy, nhưng loài S.orientalis L. vẫn được dùng phổ biến để chữa bệnh, cũng là loài phân bố trong tự nhiên rất rộng rãi ở nước ta và được quan tâm nghiên cứu nhiều nhất.
2.2. Đặc điểm sinh vật học của họ Cúc và loài Hy thiêm
- Theo Lê Đình Bích [5], Họ Cúc là cây cỏ hay bụi, ít khi là dây leo hay cây gỗ. Lá đơn, ít khi lá kép hoặc tiêu giảm, mọc so le, không có lá kèm.
Cụm hoa là đầu, các đầu có thể tụ họp thành từng chùm đầu hoặc ngù đầu. Số hoa trên một đầu cũng khác nhau. Mỗi hoa trên một kẽ lá hình vẩy nhỏ. Hoa lưỡng tính hoặc đơn tính, có khi vô tính do cả bộ nhị và nhụy không phát triển. Đài không bao giờ có dạng lá. Tràng 5 dính nhau thành ống có 5 thuỳ hoặc hình lưỡi nhỏ có 3 - 4 răng hoặc thành hình môi. Núm nhụy luôn chia thành 2 nhánh, ban đầu ép lại với nhau, mặt trong của núm nhuỵ là nơi tiếp nhận hạt phấn, mặt ngoài có lông để quét hạt phấn khi vòi nhuỵ đi qua bao phấn. Những hạt phấn này được sâu bọ mang đi thụ phấn cho hoa khác, khi các nhánh cuả núm nhuỵ đã tách ra.
Quả kín, mỗi quả có 1 hạt. Để giúp sự phát tán, mỗi quả có thể có một chùm lông (phát tán nhờ gió), có gai nhọn có móc nhỏ hoặc có lông dính (phát tán nhờ động vật). Hạt có phôi lớn không có nội nhũ.
- Theo Viện Dược liệu [32], hy thiêm là cây thân thảo (cỏ), sống hàng năm, cao từ 30 - 90 cm. Phân nhiều cành nằm ngang có lông, lá mọc đối hình quả trám, có khi tam giác hay hình thoi mũi mác, dài 4 - 10 cm, rộng 3 - 6 cm, cuống ngắn phiến lá men theo cuống, đầu nhọn mép lá có răng cưa không đều và đôi khi chia đều ở phía cuống, 3 gân chính mảnh, mặt dưới lá hơi có lông. Cụm hoa hình ngù có lá, đầu màu vàng có cuống dài từ 1 - 2 cm, mảnh, có lông. Năm lá bắc ngoài to, hình thìa mặt trong có lông dính, mặt ngoài có tuyến, lá bắc trong hình trái xoan ngược, hoa màu vàng, 5 cái ngoài là hoa cái hình lưỡi, những hoa khác lưỡng tính hình ống, không có mào lông, tràng có lưỡi ngắn. Quả bế hình trứng có 5 cạnh, góc nhẵn tròn ở đỉnh, gốc thuôn dần, nhẵn, màu đen.
Ra hoa vào tháng 4 - 5 đến tháng 8 - 9, mùa quả tháng 6 - 10.
2.3. Phân bố và điều kiện sống trong tự nhiên của hy thiêm
Ở Việt Nam cây hy thiêm phân bố rộng cả về kinh độ và vĩ độ. Thường mọc rải rác ở trung du, miền núi và đồng bằng từ các tỉnh Lào Cai đến Nghệ An, có gặp ở một số tỉnh Tây Nguyên. Hy thiêm thuộc loại cây thảo, thường mọc ở những nơi đất tương đối ẩm và màu mỡ, trên các nương rẫy. Ở những khu đất ẩm màu mỡ trên các bãi sông, triền sông, trong các thung lũng, nương rẫy, ruộng hoang, ruộng trồng ngô hoặc trong vườn nhà màu mỡ thường gặp hy thiêm mọc hoang [15].
Vùng trung du, đồng bằng Bắc Trung bộ của Việt Nam, hy thiêm thường mọc vào đầu mùa xuân (tháng 1 - 2); ra hoa kết quả từ tháng 3 - 6, cây lụi vào cuối mùa hè (tháng 7 - 8). Miền núi cao trên 800m trở lên so với mặt biển, hàng năm cây mọc vào cuối mùa xuân (tháng 3 - 4); ra hoa kết quả vào mùa thu (tháng 9 - 10), tàn lụi vào đầu mùa đông (tháng 11 - 12) [20].
Hạt hy thiêm trong tự nhiên có thời gian ngủ nghỉ dài dưới đất, cây mọc theo thời vụ trong điều kiện độ ẩm của đất cao 80 - 90% trở lên, nhiệt độ không khí từ 25 - 270C. Tỷ lệ cây mọc ngoài tự nhiên rất thấp, ước tính khoảng 2 - 3% [32].
2.4. Thành phần hoá học và dược tính
- Theo Võ Văn Chi [6], toàn cây hy thiêm có chất đắng daturosid, orientin (diterpen lacton);. 3,7 dimethylquercetin
- Theo Viện Dược liệu [32], hy thiêm có chứa daturosid (chất này thuỷ phân cho glucose và darutugenol), orientin, orientalid và 3,7 dimethylquercetin:
- Theo Phạm Trương Thị Thọ, Phạm Duy Mai [26], trong lá hy thiêm S.orientalis L. chứa Daturosid và darutigenol. Bằng phương pháp chiết tách, các tác giả đã tách được 2 nhóm chất, trong đó nhóm I có tác dụng chống viêm liều cao, nhóm II có tác dụng rõ ràng chống viêm trên chuột, đây có thể là hoạt chất chống viêm của hy thiêm.
- Một số tác giả nước ngoài; Nam Koo Dong, Kim Ja Hoan [35] cho rằng trong hy thiêm có một chất đắng không phải là ancaloit hay glucozit gọi là darutin dẫn xuất của axit salixylic. Các tác giả đã tách được 5 diterpenoids từ cây hy thiêm lông Siegesbeekia pubescens Makino:
- Theo Đoàn Thị Nhu [19], lá hy thiêm có tác dụng ức chế rõ rệt giai đoạn viêm cấp tính và ức chế yếu giai đoạn viêm mãn tính thực nghiệm. Độc tính cấp của hy thiêm tương đối thấp (77,5g/kg trọng lượng). Do đó có thể bào chế các thuốc điều trị bệnh khớp.
A. Tác dụng dược lý:
Trừ phong thấp, thông kinh lạc, thanh nhiệt giải độc, lợi gân cốt, giảm đau, đồng thời có tác dụng giảm độc, an thần, hạ huyết.
Chủ trị chứng phong thấp tê liệt, ung nhọt, thấp chấn, ngứa ngáy.
Trích doạn Y văn cổ:
Sách Đồ kinh bản thảo: "trị can thận phong khí, chân tay tê dại, đau trong xương, lưng gối mỏi - kiêm chủ phong thấp sang, cơ nhục tê khó khỏi".
Sách bản thảo kinh sơ: “khu phong trừ thấp kiêm hoạt huyết".
B. Kết qủa nghiên cứu dược lý hiện đại:
Thuốc có tác dụng kháng viêm, giãn mạch, hạ huyết áp.
2.5 Giới thiệu một số bài thuốc và thuốc có Hy thiêm
2.5.1 Trong y học cổ truyền
Vị thuốc hy thiêm có trong nhiều bài thuốc y học cổ truyền. Theo Đỗ Tất Lợi [15], hy thiêm được sử dụng chủ yếu để chữa các bệnh phong tê thấp hoặc thấp khớp. Một số bài thuốc tiêu biểu được áp dụng phổ biến trong dân gian như sau:
* Chữa phong tê thấp:
- Theo Hải Thượng Lãn Ông, nếu phong đau nên dùng:
 

futureprecedor

Đánh thức nhân tài Việt
#3
Ở Thanh Hóa đã trồng thành công và lượng tiêu thụ lớn, trên diễn đàn đã có ai thực tế việc này tại Hà Tĩnh nếu có thể chia sẻ để mọi người cùng học hỏi thì tốt quá. Tks!